0 NaN undefined

Thời kỳ của Hạ tầng xanh

Thứ tư - 09/05/2018 15:46

Khái niệm “hạ tầng xanh” còn tương đối mới trong quản lý đô thị, cả ở Việt Nam và quốc tế. Nó nói đến mạng lưới các thành tố ‘xanh’ được bảo tồn, tăng cường, hoặc thiết lập mới nhằm giải quyết các vấn đề của đô thị hóa dựa trên cách tiếp cận ‘xây dựng cùng thiên nhiên’...

Ông Gery Egon, một chuyên gia quy hoạch cảnh quan Pháp lão thành, đã có hàng chục năm kinh nghiệm làm việc trong các đồ án quy hoạch ở quốc tế và Việt Nam với vai trò tư vấn về cảnh quan, đã trao đổi cùng Người Đô Thị về vấn đề này. 

Thưa, ông có thể giải thích về “hạ tầng xanh” – một khái niệm còn khá mới với không chỉ giới quy hoạch, kiến trúc... mà phần lớn các công dân đô thị?

Gery Egon (ảnh bên): - Hạ tầng xanh là mạng lưới các thành tố ‘xanh’ được bảo tồn, hoặc tăng cường, hoặc thiết lập nhằm giải quyết các tiêu cực của đô thị hóa dựa trên cách tiếp cận ‘xây dựng cùng thiên nhiên’, nghĩa là đảm bảo sự hài hòa không đối kháng giữa phát triển kinh tế - xã hội và bảo tồn – tăng cường các giá trị của tự nhiên. Một số thành tố thiên nhiên có thể được sử dụng để cung cấp các dịch vụ quan trọng cho con người như bảo vệ họ khỏi lũ lụt hoặc khí hậu khắc nghiệt, hoặc giúp nâng cao chất lượng không khí, đất và nước. Khi các thành tố thiên nhiên được khai thác bởi con người và được sử dụng một cách hệ thống, nó được gọi là ‘hạ tầng xanh’.

Hạ tầng xanh xuất hiện ở tất cả các quy mô. Có thể có nhiều lợi ích cho sức khoẻ và phúc lợi của cộng đồng dân cư đồng hành với lợi ích môi sinh thông qua giải quyết tốt hạ tầng xanh trong bối cảnh đô thị hóa. Sông, suối, ao hồ, rừng đô thị, đất ngập nước, nông nghiệp đô thị, vườn đô thị... có thể tồn tại dưới dạng những đặc trưng tự nhiên trong thành phố, hoặc được thêm vào môi trường đô thị như một phiên bản nhân tạo. Các phát triển đô thị trên các bờ biển cũng có thể sử dụng các đặc điểm thiên nhiên vốn có như một phần của thiết kế không gian. Ngay cả cảng, bến bãi, và các phần mở rộng khác của môi trường đô thị cũng có thể được cấy yếu tố hạ tầng xanh để thu được lợi ích liên quan đến môi trường biển. 

Các thành phần chính của cách tiếp cận này bao gồm quản lý nước mưa, thích ứng khí hậu, giảm nhiệt, đa dạng sinh học, sản xuất lương thực, sản xuất năng lượng, chất lượng không khí, nước sạch, đất lành mạnh, cùng các chức năng hạ tầng xã hội như tăng chất lượng sống thông qua cung cấp không gian hoạt động giải trí, nghỉ ngơi, cung cấp bóng mát và tạo đặc trưng nơi chốn. 


Rừng đô thị, một chức năng mà vành đai xanh đô thị cần có, xong chưa có ở Việt Nam. Do chưa có luật về vành đai xanh, các không gian ven đô thị của Việt Nam tiếp tục bị đô thị hóa theo nhiều cách khác nhau, làm suy kiệt môi trường của chính đô thị và cả vùng ven đô thị.

Nếu khái niệm “hạ tầng xanh” rộng, bao trùm trên nhiều lĩnh vực như vậy, liệu rằng lượng kiến thức hành nghề hiện nay của những người làm kiến trúc hay quy hoạch ở Việt Nam là có thể đáp ứng được không? Ông có thể gợi ra giải pháp nào cho chúng tôi?

- Chúng ta đều biết, hiện môi trường sống ở mọi nơi, nhất là tại các thành phố lớn, đang bị ô nhiễm nghiêm trọng. Đó là mối quan tâm lo lắng không chỉ ở Việt Nam mà của mọi quốc gia trên thế giới. Ô nhiễm môi trường đang làm giảm chất lượng sống của toàn bộ cộng đồng và làm biến đổi các đặc điểm thiên nhiên cơ bản, đe dọa tính sống còn của hệ sinh thái địa cầu. 

Để có các giải pháp bảo vệ môi trường trên phạm vi lãnh thổ lớn, thì sự tham gia của các chuyên gia mang theo khối kiến thức về môi trường là vô cùng cần thiết. Họ là những nhà môi trường, những nhà quy hoạch cảnh quan, những chuyên gia về sinh học, địa lý tổng hợp, thủy văn... Điều quan trọng là phải có cơ chế để họ có thể cùng làm việc với nhau, nhằm tích hợp những khối kiến thức đa ngành vào các chủ đề giải pháp chính của quy hoạch. Muốn vậy, lĩnh vực các chuyên ngành của họ cần được tôn vinh đúng mức (thay vì chỉ dựa vào kiến trúc sư quy hoạch). Mà trước hết, cần xây dựng hành lang pháp lý để chính danh sự hiện diện của bộ môn quy hoạch hạ tầng xanh. Nhà nước các bạn nên đón đầu vấn đề có tính thời đại này.

Từ kinh nghiệm hành nghề ở Việt Nam, tôi thấy hiện nay sự tham gia của chuyên ngành quy hoạch cảnh quan (cũng có thể gọi rộng là quy hoạch hệ thống hạ tầng xanh), ở Việt Nam trong công tác lập quy hoạch còn rất hạn chế, bởi luật pháp về quy hoạch chưa định danh cho sự tham gia đó. Thậm chí có sự lẫn lộn giữa chuyên ngành thiết kế cảnh quan (landscape design) và chuyên ngành thiết kế đô thị (urban design). Khi Luật Quy hoạch đô thị (năm 2009) dùng cụm từ “kiến trúc – cảnh quan” để gọi chung hai chuyên ngành này như một đối tượng kép, nó chưa nhận diện đầy đủ về tầm quan trọng của hệ thống hạ tầng xanh đô thị. Bởi để có thể giải quyết tốt vấn đề hạ tầng xanh đô thị, phải mang một khối kiến thức lớn về sinh thái tự nhiên vào trong quy hoạch, điều mà các nhà thiết kế đô thị không có đủ.

Tức là, quy hoạch hạ tầng xanh phải được hiện diện như một hợp phần được tích hợp trong quy hoạch không gian. 


Vườn treo (vertical garden): giải pháp công nghệ giúp sản xuất nông nghiệp trở thành một ngành kinh tế trong đô thị.
[Chủ đầu tư: Romainville Habitat OPH; Vị trí: Romainville (France); Diện tích đất: 3800 m²; Hoàn thành: 1-2017; Nguồn: http://ilimelgo.com/en/projects/vertical-farm.html

Nhưng thưa ông, các quy hoạch của chúng tôi hiện đều đã tích hợp việc đánh giá môi trường chiến lược (ĐMC), có phản biện song hành với quá trình lập quy hoạch, phân tích từ góc nhìn môi trường để xem xét quy hoạch... cũng đưa ra các khuyến cáo, các giải pháp giảm thiểu tác động môi trường để hoàn thiện quy hoạch. Như vậy là đã thể hiện đủ sự quan tâm với môi trường trong quy hoạch hay chưa? Còn chuyên ngành quy hoạch hạ tầng xanh, nếu có, sẽ đóng vai trò thế nào, và tương tác thế nào với ĐMC?

- ĐMC khi thực hiện ở các nước phương Tây, là một quy trình phản biện khách quan. Người đánh giá môi trường chiến lược không lệ thuộc vào người lập quy hoạch. Trong trường hợp có khiếu nại (từ các nhà môi trường hoặc từ bất kỳ ai liên quan), Tòa án môi trường mới là người quyết định cuối cùng để quy hoạch đó có được gia nhập vào hệ thống pháp lý hay không. 

Nhưng ĐMC trong các quy hoạch ngành ở Việt Nam, theo những gì tôi đã gặp, được thực hiện bên trong mỗi nhóm tư vấn quy hoạch. Cơ chế đó đã phần nào vô hiệu hóa công cụ này. Bởi không ai muốn tự vạch trần ra chỗ chưa hoàn thiện của mình.

Ngay cả trong các trường hợp của phương Tây, ĐMC cũng chỉ là một công cụ mềm. Nó dùng các khuyến cáo để cố gắng lái các giải pháp về hướng bền vững hơn, cố gắng giảm thiểu tác động môi trường của chúng. ĐMC thường không chặn đứng các quyết định chưa tốt, không đảo ngược tình huống phát triển thiếu bền vững, không thâm nhập sâu vào các chi tiết, và thường không chắc chắn được là điều gì trong các khuyến cáo của mình thực sự tham gia vào quyết định cuối cùng. 


Những vùng đất trũng ven đô được chú ý bảo tồn vì nhằm gìn giữ đặc tính đa dạng sinh học và chức năng hạ tầng xanh. Thay vì biến thành các công viên vui chơi giải trí như thế này...

Cái thiếu là, sẽ cần ai đó đem các tư tưởng mang tính chiến lược môi trường của ĐMC, biến thành các giải pháp cụ thể cho hệ thống hạ tầng xanh đô thị. Những giải pháp đó chắc chắn sẽ hiện diện trong bản đồ, báo cáo, thuyết trình, quy định... và có mặt trong quyết định cuối cùng. Đó là phương cách đảm bảo nhất để những quan tâm môi trường thực sự trở thành giải pháp lâu dài và bền vững.

Như vậy, trong khi ĐMC là một công cụ mang tính chiến lược, thì quy hoạch hạ tầng xanh là công cụ mang tính chiến thuật, đưa chiến lược đó thành bộ giải pháp cụ thể. 


Jardiland: siêu thị vườn, một mô hình thúc đẩy giao thương sản phẩm nông nghiệp đô thị. 

Xin cảm ơn ông về cuộc trò chuyện thú vị, nhất là với những người có nghề nghiệp tham gia vào công cuộc kiến tạo phát triển đô thị ở Việt Nam.

KTS. Nguyễn Xuân Anh thực hiện

Một số kinh nghiệm của Pháp trong thiết lập nền tảng pháp lý cho lĩnh vực quy hoạch hạ tầng xanh

Từ năm 2000, nhận thấy tầm quan trọng của việc bảo vệ và phát triển hệ thống cảnh quan xanh, châu Âu đã ra một công ước chung - Công ước Florence. 

Công ước có phạm vi áp dụng trên toàn bộ lãnh thổ các nước tham gia; bao gồm các khu vực tự nhiên, nông thôn, đô thị và ven đô. Mục tiêu của Công ước là thúc đẩy bảo vệ cảnh quan xanh, quản lý và lập quy hoạch, và tổ chức các hoạt động hợp tác châu Âu về các vấn đề cảnh quan xanh. Công ước yêu cầu các nước thành viên:

  • Công nhận cảnh quan xanh là thành phần thiết yếu trong môi trường sống của con người, biểu hiện sự đa dạng của di sản văn hóa và thiên nhiên được chia sẻ, và nền tảng cho bản sắc;
  • Thiết lập và thực hiện chính sách cảnh quan nhằm bảo vệ, quản lý và quy hoạch cảnh quan xanh thông qua các biện pháp cụ thể;
  • Thiết lập các thủ tục cho sự tham gia của các cơ quan chính phủ, địa phương và khu vực, và các bên khác quan tâm đến việc xác định và thực hiện chính sách cảnh quan được đề cập trong đoạn trên;
  • Tích hợp các vấn đề - giải pháp cảnh quan xanh vào các chính sách, quy hoạch và trong các chính sách văn hoá, môi trường, nông nghiệp, xã hội và kinh tế, cũng như trong bất kỳ chính sách nào có ảnh hưởng trực tiếp hoặc gián tiếp đến cảnh quan.

(Ảnh bên: Vườn đô thị, nơi cộng đồng dân cư làm nông nghiệp như một thú vui có sản lượng. Các không gian xanh thể loại này có chính sách phù hợp để được ưu tiên tồn tại, và được giao phó cho cộng đồng quản lý, thay vì bị biến thành bê tông.) 

Kể từ công ước này, các thuật ngữ trong lĩnh vực cảnh quan xanh đã có được định nghĩa chung đủ sâu sắc để các quốc gia nhận diện và có chính sách cụ thể với các vùng cảnh quan của mình. Những khái niệm sau là nền tảng quan trọng để phát triển quy phạm về quy hoạch và quản lý cảnh quan của các nước:

  • "Cảnh quan xanh" là một khu vực không gian, theo nhận thức của con người, có tính cách là kết quả của hành động và sự tương tác của các nhân tố tự nhiên và/hoặc các nhân tố con người;
  • "Quản lý cảnh quan xanh" là hành động, từ quan điểm phát triển bền vững, để đảm bảo duy trì chất lượng các khu vực cảnh quan xanh một cách thường xuyên, từ đó hướng dẫn và điều hoà những thay đổi do phát triển kinh tế - xã hội gây ra;
  • "Quy hoạch cảnh quan xanh" là hành động hướng tới tương lai mạnh mẽ nhằm nâng cao, khôi phục hoặc tạo dựng môi trường cảnh quan xanh.

Ở Pháp, Luật Cảnh quan xanh (la loi Paysages) đã tồn tại từ năm 1993, là công cụ pháp lý đầu tiên dành cho chủ đề bảo vệ và tăng cường chất lượng các khu vực cảnh quan xanh. Hai mươi năm sau, luật ALUR (Luật tiếp cận nhà ở và cải tạo đô thị) ra đời, đã tăng cường tính phương pháp để các quan tâm cảnh quan xanh đi vào quy trình lập quy hoạch, qua đó củng cố việc thực hiện Công ước Florence, đặc biệt là với "các mục tiêu chất lượng cảnh quan" mà công ước này giới thiệu.

Với luật ALUR, mục tiêu của quy hoạch cảnh quan xanh được mở rộng. Việc lập quy hoạch có nghĩa vụ bảo tồn và nâng cao chất lượng cảnh quan xanh trong phạm vi toàn quốc. Luật ALUR đã thống nhất cách hiểu về cảnh quan xanh trong hệ thống quy hoạch.

  • Đối với quy hoạch vùng tỉnh, điều L122-1-4 của luật ALUR yêu cầu đồ án phải thể hiện việc "sử dụng tiết kiệm các vùng tự nhiên, bảo vệ các khu vực bị ảnh hưởng bởi hoạt động nông nghiệp, lâm nghiệp và bảo vệ các khu vực cảnh quan thiên nhiên".
  • Đối với quy hoạch đô thị và khu dân cư, điều L123-1 quy định rằng quy hoạch phải đưa ra các hướng dẫn để có thể xác định hành động cần thiết để tăng chất lượng cường môi trường, cảnh quan. Ngoài ra, quy hoạch cần "xác định và định vị các đặc khu vực cảnh quan xanh, cùng các yêu cầu tương ứng để đảm bảo sự bảo vệ của chúng".

Để tuân thủ những quy định này, nghiên cứu cảnh quan xanh đã trở thành một trong những định hướng khung cho việc phát triển ý tưởng quy hoạch đô thị. Các tài liệu quy hoạch phải tiếp cận vấn đề cảnh quan ở cả 3 cấp độ không gian (vùng tỉnh, đô thị và khu dân cư). Năng lực tư vấn phải đủ để đảm bảo để khoa học môi trường cảnh quan phải được huy động trong suốt quá trình lập quy hoạch. Kiến trúc sư cảnh quan và các chuyên gia môi trường phải tham gia trong các khâu thiết kế, định hướng không gian, xây dựng quy định pháp lý, lập chương trình phát triển. Đó là cách làm mới yêu cầu tích hợp trong suốt quá trình lập quy hoạch và quản lý phát triển, trong đó phương pháp tiếp cận cảnh quan ban đầu sẽ được tích hợp vào tài liệu cuối cùng của quy hoạch. 


Nguồn tin: Theo ashui.com

Tổng số điểm của bài viết là: 0 trong 0 đánh giá

Click để đánh giá bài viết

  Ý kiến bạn đọc

Những tin mới hơn

Những tin cũ hơn

Gửi phản hồi
Lấy ý kiến cộng đồng dân cư

2068/QĐ-VQH

Quyết định số 2068/QĐ-VQH về việc Ban hành Hướng dẫn thành phần hồ sơ lập chỉ giới đường đỏ, cung cấp số liệu hạ tầng kỹ thuật tại Viện Quy hoạch xây dựng Hà Nội

Thời gian đăng: 23/11/2023

lượt xem: 131 | lượt tải:63

3663/QĐ-UBND

Quyết định số 3663/QĐ-UBND của UBND TP Hà Nội về việc Phê duyệt Điều chỉnh cục bộ QHCT tỉ lệ 1/500 hai bên tuyến đường Nhật Tân - Nội Bài (đoạn 3) khu vực dự án đầu tư xây dựng Thành phố thông minh GĐ1 và GĐ2

Thời gian đăng: 24/07/2023

lượt xem: 153 | lượt tải:109

3428/QĐ-UBND

Quyết định số 3428/QĐ-UBND của UBND TP Hà Nội về việc Phê duyệt Điều chỉnh cục bộ Quy hoạch phân khu đô thị N9, tỉ lệ 1/5000 tại khu quy hoạch 1.

Thời gian đăng: 20/08/2023

lượt xem: 196 | lượt tải:90

700/QĐ-TTg

Quyết định số 700/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ về vệc Phê duyệt Nhiệm vụ Điều chỉnh Quy hoạch chung Thủ đô Hà Nội đến năm 2045, tầm nhìn đến năm 2065

Thời gian đăng: 18/06/2023

lượt xem: 298 | lượt tải:117

3004/QĐ-UBND

Quyết định số 3004/QĐ-UBND của UBND Thành phố HN về việc Phê duyệt Chỉ giới đường đỏ tuyến đường vào Trụ sở Cơ quan cảnh sát điều tra Bộ Công an, Trại tạm giam T16 và Trung tâm thẩm vấn của lực lượng cảnh sát, tỉ lệ 1/500

Thời gian đăng: 27/07/2023

lượt xem: 199 | lượt tải:56

Báo tạp chí

  • Báo Lao Động
  • Báo Kinh Tế Đô Thị
  • Báo Quy Hoạch Đô Thị
  • Báo Kiến Việt
  • Tạp chí kiến trúc
  • Theo Báo Xây Dựng
Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 giây